TCCS – Việt Nam và Lào là hai nước láng giềng gần gũi, có mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị truyền thống tốt đẹp, gắn bó lâu đời. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào được Đảng và nhân dân hai nước không ngừng vun đắp, trở thành một tấm gương mẫu mực, thủy chung, trong sáng, vững bền, hiếm có trong quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động thường xuyên thực hiện những âm mưu, thủ đoạn chống phá mối quan hệ đoàn kết đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam. Vì vậy, việc nhận diện rõ những quan điểm sai trái, luận điệu quyên tạc của các thế lực thù địch, phản động để có giải pháp phòng, chống là vấn đề cấp bách hiện nay.
Những luận điệu chống phá của các thế lực thù địch, phản động về mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam
Hai nước Việt Nam và Lào có chung đường biên giới dài hơn 2.340km, cùng tựa lưng vào dãy Trường Sơn hùng vĩ, uống chung dòng nước sông Mê Công. Lịch sử đấu tranh và phát triển của nhân dân hai nước đã khiến hai dân tộc Việt Nam và Lào thân thiết, gắn bó với nhau từ bao đời nay. Mối quan hệ keo sơn đó càng được phát triển và đậm nét hơn trong hơn tám thập niên qua, khi nhân dân hai nước cùng tiến hành sự nghiệp cách mạng chống kẻ thù chung, giành độc lập, tự do, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của mỗi nước.
Tuy nhiên, cùng với những diễn biến và thay đổi phức tạp, khó lường của tình hình thế giới và khu vực hiện nay, các thế lực thù địch, phản động liên tục thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân Cách mạng Lào; “phi chính trị hóa” quân đội hai nước, tách sự lãnh đạo của Đảng với quân đội…, từ đó phá hoại và gây chia rẽ mối quan hệ giữa quân đội và nhân dân, cũng như tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt Việt Nam – Lào. Các thế lực thù địch thường xuyên xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng; phủ nhận ý nghĩa cao đẹp, nghĩa vụ quốc tế cao cả của quân đội Việt Nam với cách mạng Lào (?!)
Bên cạnh đó, các thế lực thù địch, phản động còn sử dụng những chiêu bài của “cách mạng màu”, như lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, viện trợ kinh tế, sắc tộc, tôn giáo, chiến tranh tâm lý… để can thiệp vào công việc nội bộ của hai nước nhằm chống phá chế độ chính trị và mối quan hệ hữu nghị, đoàn kết Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam, âm mưu hướng lái hai nước đi theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Lợi dụng việc Việt Nam và Lào mở cửa hội nhập quốc tế, các thế lực thù địch, phản động đưa ra những luận điệu sai trái, xuyên tạc đường lối cũng như những thành tựu hội nhập kinh tế quốc tế của hai nước… Họ ra sức lôi kéo, xúi giục, kích động người dân, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số khu vực biên giới di cư tự do, vượt biên trái phép, thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để hình thành tư tưởng ly khai, chia rẽ người theo đạo và người không theo đạo, tôn giáo, sắc tộc vùng biên giới hai nước…, gây mất trật tự trị an, phá vỡ sự ổn định về chính trị – xã hội hai nước.
Đặc biệt, các thế lực thù địch, phản động đã và đang tập trung khai thác những thách thức từ chiến lược cạnh tranh ảnh hưởng của các nước lớn đối với các vấn đề khu vực, những tác động của các vấn đề an ninh phi truyền thống và một số điểm không “song trùng” lợi ích quốc gia – dân tộc, nhằm gây nhiễu loạn thông tin, tạo nên sự nghi kỵ lẫn nhau, gây hoang mang dư luận, chia rẽ nội bộ và chống phá tình đoàn kết thủy chung, trong sáng, sắt son, hiếm có giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam – Lào.
Những yếu tố làm nên giá trị quan hệ đoàn kết, hữu nghị đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam
Nối tiếp truyền thống của Liên minh chiến đấu Việt Nam – Lào – biểu tượng của mối quan hệ vĩ đại, tình đoàn kết đặc biệt giữa hai nước trong thời kỳ cùng kề vai sát cánh đấu tranh chống ách thống trị và xâm lược của thực dân, đế quốc, mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào ngày nay tiếp tục được xây dựng, phát triển trên nền tảng cùng chung ý thức hệ cũng như mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Công cuộc xây dựng, phát triển đất nước cả ở Việt Nam và Lào đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Marxist – Leninist, có cội nguồn chung là Đảng Cộng sản Đông Dương. Hai Đảng, hai Nhà nước Việt Nam và Lào vẫn luôn duy trì mối quan hệ gắn bó mật thiết, hết lòng tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước dù tình hình mỗi nước hay bối cảnh quốc tế, khu vực, cũng như các mối quan hệ quốc tế của mỗi bên có nhiều thay đổi.
Lịch sử đã chứng minh, Việt Nam và Lào có chung hoàn cảnh, gần gũi về địa lý và điều kiện tự nhiên, có chung mục tiêu phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nếu không có sự nhất trí về quan điểm, tư tưởng, đường lối chiến lược thì hai nước khó có thể xây dựng được mối quan hệ truyền thống, hữu nghị, đoàn kết, thủy chung, sắt son, hiếm có như hiện nay. Hai nước cùng có chung mục đích, lý tưởng theo đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội; có chế độ chính trị và nhà nước tương đồng, đang thực hiện công cuộc đổi mới đất nước và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mỗi năm, Việt Nam dành cho Lào từ 600 đến 700 suất học bổng đào tạo ngắn hạn và dài hạn. Hiện nay, có khoảng hơn 14.000 sinh viên Lào đang theo học tại các cơ sở giáo dục Việt Nam và 250 sinh viên Việt Nam đang học tập tại Lào. Đây là những nhân tố quan trọng đóng góp vào sự nghiệp phát triển của mỗi nước và là cầu nối không thể thiếu trong việc duy trì, tăng cường hơn nữa mối quan hệ tốt đẹp sẵn có giữa hai Đảng và nhân dân hai nước. Bên cạnh công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, Việt Nam còn giúp đỡ Lào trong đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, hệ thống trường học với tổng mức đầu tư lên đến hàng trăm tỷ đồng bằng nguồn viện trợ không hoàn lại của Chính phủ Việt Nam.
Từ khi hai nước tiến hành công cuộc đổi mới (năm 1986), mục tiêu hàng đầu của cả hai nước là tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trên cơ sở đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đẩy mạnh hội nhập quốc tế. Hai nước xây dựng mô hình nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa “của dân, do dân, vì dân” dưới sự lãnh đạo của một chính đảng duy nhất. Sự tương đồng giữa hai Đảng, hai bộ máy nhà nước và lý tưởng chung xã hội chủ nghĩa là điều kiện quan trọng tạo nên mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào trong bối cảnh mới.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ trong thế kỷ XX của hai dân tộc Việt Nam – Lào, sự nhất trí về quan điểm, tư tưởng, đường lối chiến lược đã giúp hai nước xây dựng Liên minh chiến đấu Việt Nam – Lào. Chiến lược phối hợp tác chiến hiệu quả chỉ có thể nảy sinh từ một đường lối chính trị có sự nhất trí cao về quan điểm và lợi ích chân chính. “Về mặt đường lối, mối quan hệ cùng chung một dòng máu chính trị, là tài sản quý báu nhất của hai Đảng, hai Nhà nước và hai dân tộc, là một yếu tố quan trọng quyết định đến thắng lợi của cách mạng hai nước trong quá trình chiến đấu trường kỳ gian nan vất vả”(1). Như vậy, sự tương đồng về ý thức hệ cũng như mục tiêu phát triển đất nước của mỗi bên đang là nhân tố cơ bản tác động đến mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào.
Sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, Việt Nam và Lào đều đứng trước những cơ hội và thách thức to lớn. Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu trước đây không chỉ tác động đến quan hệ đối ngoại của Việt Nam và Lào, mà còn gây ra những ảnh hưởng nhất định về mặt an ninh chính trị, tư tưởng của mỗi nước. Bên cạnh việc đoàn kết, kề vai sát cánh cùng xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện đổi mới đất nước, cả hai nước còn phối hợp, ủng hộ lẫn nhau trong hợp tác đa phương. Đặc biệt là cùng nhau giải quyết, xây dựng bán đảo Đông Dương hữu nghị, đoàn kết và phát triển; phối hợp chặt chẽ tại các diễn đàn hợp tác khu vực, như: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Tiểu vùng sông Mekong mở rộng, Tam giác phát triển Campuchia – Lào – Việt Nam. Hai nước luôn ủng hộ lập trường của nhau trong nhiều vấn đề được đưa ra thảo luận tại các diễn đàn khu vực và quốc tế; hỗ trợ đắc lực cho nhau trong việc tổ chức thành công các hội nghị về chính trị, an ninh và quốc phòng trong năm Lào hoặc Việt Nam giữ cương vị Chủ tịch ASEAN; cùng các nước trong ASEAN xây dựng Cộng đồng ASEAN nhằm thúc đẩy sự phát triển chung của khu vực; nỗ lực cùng các nước giải quyết tranh chấp, thúc đẩy tuân thủ và thực hiện các nguyên tắc cơ bản phù hợp với luật pháp quốc tế.
Nhận thức rõ an ninh của mỗi nước không tồn tại độc lập, mà có sự phụ thuộc lẫn nhau nên cả hai nước đều chú trọng, tăng cường hợp tác chặt chẽ về quốc phòng – an ninh, bởi hợp tác quốc phòng – an ninh Việt Nam – Lào được xây dựng trên cơ sở truyền thống chống giặc ngoại xâm của hai dân tộc từ ngàn xưa và sự tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, phát huy thế mạnh và khả năng của mỗi nước trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi. Lịch sử đã chứng minh, hai dân tộc Việt Nam – Lào gắn kết với nhau như là một quy luật tự nhiên và sự gắn kết đó có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự ổn định về chính trị cũng như sự phát triển của mỗi nước. Hợp tác hiệu quả về quốc phòng – an ninh giữa hai nước sẽ giúp an ninh và sự ổn định chính trị của hai nước được bảo đảm, do vậy, cần có sự hợp tác chặt chẽ, chân thành và tin cậy từ cả hai phía.
Hợp tác kinh tế giữa hai nước cũng được đặc biệt quan tâm, với nội dung, hình thức hợp tác ngày càng được mở rộng, đa dạng và phong phú. Mới đây nhất, nhân chuyến thăm hữu nghị chính thức Lào (tháng 1-2023) của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Phạm Minh Chính, hai bên khẳng định quyết tâm nâng tầm hợp tác kinh tế để tương xứng với tầm vóc của quan hệ đặc biệt giữa hai nước, trong đó trọng tâm là tiếp tục hỗ trợ nhau phục hồi kinh tế sau đại dịch COVID-19, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng và hiệu quả; nhất trí tăng cường kết nối giữa hai nền kinh tế, cả về hạ tầng cứng và hạ tầng mềm nhằm mở rộng không gian hợp tác và phát triển.
Bên cạnh đó, với vị trí địa lý không giáp biển, Lào rất cần các “cửa ngõ” thông thương ra thế giới. Với hệ thống đường xương cá và hệ thống cảng biển thuận lợi, nhất là việc Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Lào đầu tư và khai thác cảng Vũng Áng, Việt Nam được xem là “cầu nối” quan trọng để Lào mở rộng sản xuất, thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, lưu thông hàng hóa… với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đây cũng là lý do khiến nhu cầu khai thác vị trí địa – chiến lược của Việt Nam đối với Lào ngày càng trở nên cần thiết. Ngược lại, trong bối cảnh Việt Nam đẩy mạnh công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Lào được xem như “cầu nối” để hàng hóa của Việt Nam lưu chuyển sang các nước ASEAN khác thông qua Hành lang kinh tế Đông – Tây (EWEC) nối Việt Nam qua Lào, Thái Lan sang Myanmar…
Đối với Việt Nam, vị trí địa – chính trị của Lào có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc bảo vệ khu vực biên giới, ngăn chặn những tác động tiêu cực trực tiếp từ phía Tây vào Việt Nam. Thực tế, trong những thập niên cuối thế kỷ XX, các thế lực thù địch, phản động bên ngoài đã lợi dụng địa hình rừng núi giữa hai nước làm căn cứ hoạt động để thâm nhập chống phá Việt Nam. Vì vậy, sự ổn định trong hòa bình và phát triển của Lào, cũng như việc củng cố mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào trở thành một trong những yếu tố cấu thành lợi ích thiết thân, chính đáng của Việt Nam. An ninh và ổn định của Lào có ảnh hưởng trực tiếp tới an ninh, ổn định và phát triển của Việt Nam. Sự ổn định an ninh của Lào là điều kiện quan trọng bảo đảm an ninh của Việt Nam và ngược lại. Do vậy, việc tăng cường hợp tác chặt chẽ luôn là vấn đề sống còn của cả hai quốc gia Việt Nam – Lào.
Có thể thấy, việc tăng cường phát triển quan hệ đặc biệt giữa hai quốc gia giúp Việt Nam và Lào bảo vệ được lợi ích quốc gia – dân tộc mỗi nước. Do đó, có thể khẳng định, sự tương đồng và lợi ích quốc gia – dân tộc của mỗi nước tác động tích cực đến mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào. Xây dựng, bảo vệ, giữ gìn và phát huy giá trị của mối quan hệ hữu nghị, truyền thống, đoàn kết đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam vừa xuất phát từ ý muốn chủ quan (hệ tư tưởng và đường lối của đảng cầm quyền), vừa từ thực tế khách quan do sự tồn vong, phát triển của mỗi nước đòi hỏi. Đúng như cố Tổng Bí thư Đảng Nhân dân Cách mạng Lào Kaysone Phomvihane từng khẳng định: “Mối quan hệ Lào – Việt Nam đã trở thành mối quan hệ đặc biệt trong sáng, thủy chung mẫu mực, hiếm có”, “củng cố và tăng cường mối quan hệ đặc biệt đó, bảo vệ tình đoàn kết Lào – Việt như bảo vệ con ngươi của mắt mình”(2).
Tiếp tục đưa mối quan hệ Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam ngày càng thực chất và hiệu quả, đẩy lùi các luận điệu chia rẽ, chống phá của các thế lực thù địch
Trước hết, với quyết tâm nâng tầm quan hệ “hữu nghị vĩ đại” Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam, hai bên cần tiếp tục xác định xây dựng mối quan hệ chính trị là nền tảng, quan hệ kinh tế là cốt yếu. Củng cố, nuôi dưỡng vững chắc nhận thức chung hai bên về tầm quan trọng chiến lược của mối quan hệ hai nước, coi đây là vấn đề chiến lược sống còn đối với sự nghiệp cách mạng của mỗi nước. Tính chất đặc biệt trong quan hệ Việt Nam – Lào được thể hiện ở điểm khác căn bản với các quan hệ đối tác thông thường khác, nó là quan hệ hợp tác toàn diện bao gồm cả chính trị, an ninh, kinh tế, văn hóa… và ưu tiên, ưu đãi cho nhau cao hơn cả quan hệ song phương. Thống nhất nhận thức trong cán bộ và nhân dân hai nước về tính chất đặc biệt của mối quan hệ, trên cơ sở có tầm nhìn rộng, toàn diện và lâu dài hơn. Tích cực đẩy mạnh hơn nữa quan hệ hợp tác; chủ động lựa chọn các hạng mục có nhu cầu đầu tư và phát triển đáp ứng được yêu cầu của công cuộc xây dựng đất nước trên quan điểm tiếp cận tổng thể về lợi ích trong quan hệ hợp tác đặc biệt.
Thứ hai, huy động tối đa nguồn lực và hệ thống chính trị của hai nước, tập trung cải thiện, nâng tầm quan hệ hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học – kỹ thuật tương xứng với quan hệ chính trị Việt Nam – Lào. Tăng cường và hoàn thiện cơ chế hợp tác, trước hết là tăng cường tính hiệu quả của cơ chế Ủy ban liên Chính phủ về hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học – kỹ thuật. Kết hợp thế mạnh của mỗi nước tạo thành thế mạnh chung trên cơ sở tranh thủ các yếu tố quốc tế thuận lợi về vốn, kỹ thuật, thị trường. Tập trung rà soát lại tổng thể cơ chế, chính sách, chương trình và tổ chức thực hiện để bổ sung và điều chỉnh cho phù hợp với thực tế và những đòi hỏi mới trong quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước; đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực hiện nay và những năm tới, nhằm thực hiện có hiệu quả các mục tiêu chiến lược hợp tác đã đặt ra.
Thứ ba, tăng cường hợp tác toàn diện theo hướng hai nước phối hợp chặt chẽ và hiệu quả hơn trong các chương trình, dự án hợp tác giữa hai nước với khu vực và hợp tác đa phương khác trên cơ sở tôn trọng đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ và chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại của nhau để tận dụng các mối quan hệ này phục vụ lợi ích cho cả hai bên, bảo vệ tối đa lợi ích quốc gia của từng nước và hai nước, đặc biệt là trong các cơ chế hợp tác mà hai nước cùng tham gia, như Liên hợp quốc, ASEAN; các cơ chế hợp tác tiểu vùng; các vấn đề an ninh phi truyền thống, mà cả hai sẽ cùng phải đối mặt. Chủ động tham vấn và hỗ trợ lẫn nhau trong việc giải quyết các vấn đề đối nội và đối ngoại quan trọng hoặc tham khảo lẫn nhau về lập trường, quan điểm tại các diễn đàn quốc tế mà cả hai nước cùng tham gia. Qua đó, giúp hai bên có đủ khả năng ứng phó với các chuyển biến của tình hình quốc tế, khu vực, từ đó, có thể giúp hai nước bảo vệ hiệu quả lợi ích quốc gia của từng nước và lợi ích chung của hai nước.
Thứ tư, coi trọng việc cân bằng giữa các lợi ích cốt lõi về chính trị, an ninh, kinh tế của từng nước và của hai nước dưới tác động từ các nhân tố bên trong và bên ngoài. Trong suốt quá trình lịch sử, mối quan hệ Việt Nam – Lào trở nên gắn bó trước hết là vì lợi ích thiết thân của hai nước. Ngày nay, bối cảnh khu vực và thế giới đã hoàn toàn thay đổi; theo đó, các nước lớn và nhỏ đều có lợi ích riêng khi theo đuổi các mối quan hệ quốc tế. Trong số các lợi ích riêng đó, có những lợi ích cốt lõi mà các nước rất khó từ bỏ khi phải đối mặt với các sức ép từ bên ngoài. Do đó, hai nước cần xác định rõ những vấn đề hai bên có lợi ích “không trùng hợp” hoặc “không hoàn toàn trùng hợp” để có “quy tắc ứng xử” phù hợp theo hướng tôn trọng lợi ích của nhau, tôn trọng luật pháp và tập quán quốc tế; tiếp tục tranh thủ và phát huy hiệu quả các cơ chế, các kênh hợp tác và phương châm hợp tác “giúp bạn là tự mình giúp mình” của hai nước.
Trong hơn 60 năm qua, mặc dù tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động phức tạp, thuận lợi và thách thức đan xen, song có thể khẳng định, quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam – Lào đã không ngừng phát triển vững chắc, ngày càng sâu rộng, thực chất và hiệu quả. Những bài học lịch sử của mối quan hệ mẫu mực Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam; những tư tưởng chỉ đạo và nội dung hợp tác nêu trong bản Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác vẫn vẹn nguyên giá trị và là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt tiến trình phát triển của mối quan hệ giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước. Đối với nhân dân hai nước, quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam được coi là lẽ sống, là tình nghĩa trước sau như một, dù khó khăn, gian nan đến mấy cũng không thể chia tách. Mối quan hệ đặc biệt hiếm có Việt Nam – Lào đang tiếp tục được vun đắp trên cơ sở vì lợi ích và mục tiêu chung của hai quốc gia, với tinh thần quốc tế trong sáng, đưa cách mạng hai nước từng bước vượt qua những thử thách, chông gai và là hành trang quý giá, là cơ sở vững chắc để các thế hệ hai nước hiện nay và mai sau tiếp tục phát huy tình đoàn kết, xây dựng mối quan hệ bình đẳng, tự chủ, hữu nghị, hợp tác giữa hai nước “mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững”./.
——————————
(1) Viện Khoa học xã hội Việt Nam – Viện Khoa học xã hội quốc gia Lào: Hội thảo khoa học quốc tế về mối quan hệ Việt Nam – Lào, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2007, tr. 244
(2) Đảng Nhân dân Cách mạng Lào – Đảng Cộng sản Việt Nam: Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam (1930 – 2007), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2012, t. IV, tr. 133, 135 – 136